CS-Hướng dẫn kỹ thuật ương, nuôi cua biển thương phẩm
Cua biển (Scylla paramamosain) được đánh giá cao về thành phần dinh dưỡng, có giá trị thương mại lớn.
2019-09-13 15:57:57
Nuôi ghẹ lột thương phẩm
Ghẹ lột là loại hàng thương phẩm có giá trị cao về kinh tế và dinh dưỡng, được thị trường trong nước và thế giới ưa chuộng. Kỹ thuật nuôi ghẹ lột tương đối phức tạp, bà con cần lưu ý.
Ghẹ xanh
Tiêu chuẩn
Ghẹ xanh nuôi lột chọn cỡ từ 10 - 20 con/kg, trọng lượng từ 50 - 100g/con. Chọn những con chắc thịt, khỏe mạnh, nhanh nhẹn, đủ chân càng và mai yếm không bị dập nứt. Trường hợp những con hình thành lớp vỏ mới chuẩn bị lột xác ghẹ cớm, khỏe mạnh có đủ chân càng nuôi riêng.
Kỹ thuật xử lý để ghẹ lột đồng loạt
Để ghẹ xanh lột vỏ đồng loạt có thể áp dụng biện pháp cắt mắt và trộn chất Chitosan hay Hormone 20 E vào thức ăn cho ghẹ ăn.
Sau khi tuyển ghẹ nuôi lột, cho ghẹ vào bể có sục khí nuôi lưu từ 10 - 12 h để ghẹ hồi sức và ổn định. Bổ sung Vitamin C vào bể nuôi để tăng thêm sức đề kháng cho ghẹ.
Khi kiểm tra ghẹ đã khỏe mạnh, giảm nhiệt độ nước xuống còn 20 - 22oC và thực hiện cắt mắt. Có thể cắt mắt ghẹ bằng nhiều phương pháp như bóp, kẹp, rạch, thắt và cắt. Tuy nhiên, phương pháp dùng kéo cắt là thông dụng nhất.
Cắt mắt: Đốt nóng kéo hoặc dùng cồn khử trùng kéo cắt. Một người cầm giữ ghẹ, một người cắt, vết cắt tính từ gốc mắt ra là 2 - 3 mm. Sau khi cắt mắt tiếp tục nuôi thêm 10 - 12 h trong bể để ghẹ ổn định. Khi trời mát cho ghẹ vào bể nuôi lột hay cho ghẹ vào hộp nhựa chuyển ra ao nuôi.
Cho ăn thuốc: Cá tươi rửa sạch trộn với chất kích thích lột vỏ của giáp xác là Hormone 20 E với nồng độ 1 ppm hay chất Chitosan với nồng độ 1%, có thể dùng dầu mực bao thức ăn để tăng khả năng của thuốc.
Ghẹ cắt mắt sử dụng chất Chitosan trong vòng 14 ngày ghẹ lột vỏ đồng loạt, tỷ lệ 70 - 80%; sử dụng hormone 20 E trong vòng 20 ngày ghẹ lột vỏ đồng loạt thấp hơn 65 - 75%; không cắt mắt sử dụng Chitosan trong 20 ngày ghẹ lột vỏ 40-50%.
Chăm sóc, quản lý
Thức ăn cho ghẹ lột là cá tạp, thịt nghêu... cắt thành miếng nhỏ, rửa sạch và rải đều khắp bể, hộp cho ghẹ ăn. Lượng thức ăn hàng ngày từ 3 - 4% trọng lượng thân và tùy thuộc vào sức ăn của ghẹ.
Ngày cho ghẹ ăn 2 lần vào buổi sáng (5 - 6 h) và chiều (17 - 18 h), cho ghẹ ăn lúc mới thay nước và tránh cho ăn lúc nhiệt độ cao. Những ngày đầu ghẹ ăn nhiều, sau ngày thứ 9, 10 trở đi sức ăn của ghẹ giảm và bắt đầu lột.
Kiểm tra: Sau từ 9 đến 14 ngày nuôi, một số ghẹ đã chuyển sang thời kỳ cớm. Người nuôi dùng ngón tay ấn nhẹ vào mép dưới mai ghẹ sẽ nghe thấy tiếng gãy của mai. Tách riêng những con lên cớm và chưa lên cớm, thay nước để kích thích ghẹ lột, cứ 1 - 2 ngày thay 30 - 50% nước một lần và giữ nhiệt độ nước ổn định từ 28 - 300C.
Ghẹ lên cớm sắp lột vỏ không cho ăn, 2 - 3 giờ kiểm tra 1 lần, chú ý thay nước sạch cho ghẹ lột nhanh.
Thu hoạch
Ghẹ vừa lột được rửa sạch bằng nước ngọt ở nhiệt độ 150C, để mỗi con trong hộp, cột lại bằng dây thun, bảo quản lạnh và chuyển đến nơi tiêu thụ. Những con chưa cớm tiếp tục cho ăn ngày 1 lần, nuôi thêm từ 5 - 7 ngày chờ cho ghẹ lên cớm lột vỏ rồi thu hoạch.
Theo thuysanvietnam.com.vn
Cua biển (Scylla paramamosain) được đánh giá cao về thành phần dinh dưỡng, có giá trị thương mại lớn.
Mô hình nuôi cua kết hợp tôm sú vẫn có hiệu suất đầu tư đạt lợi nhuận cao đối với con tôm là trên 55%, cua là 60%.
Cua biển là loại thực phẩm giàu chất dinh dưỡng và có giá trị kinh tế cao. Để nuôi được cua biển trong bể xi măng, đòi hỏi kỹ thuật chăm sóc cẩn thận.
Tùy vào giai đoạn phát triển của cua mà người nuôi cần xác định loại thức ăn, kích cỡ thức ăn phù hợp để cua dễ dàng hấp thụ.
Chủ động phòng bệnh, khống chế một số bệnh nguy hiểm ở tôm hùm, bảo đảm số tôm hùm nuôi bị bệnh thấp hơn 15% tổng diện tích nuôi; ở ngao/nghêu...
Bệnh run chân do Rickettsia phân bố ở một số loài cua biển và cua nước ngọt. Tỷ lệ chết khá cao ở cua xanh.
Cua lửa được xem là một đối tượng dễ nuôi và được bắt gặp phân bố ở vùng ĐBSCL, chủ yếu ở vùng biển Kiên Giang giáp với vịnh Thái Lan
Giới thiệu tới bà con kỹ thuật nuôi cua trứng từ nguồn giống sinh sản nhân tạo theo hướng an toàn sinh học
Cua biển (Scylla paramamosain) là một trong những đối tượng có giá trị kinh tế và xuất khẩu cao bởi hàm lượng mỡ thấp, protein cao
Bài viết giới thiệu tới bà con những kiến thức liên quan tới kỹ thuật nuôi cua biển trong lồng bè đạt hiệu quả nhất.